Giãn phế quản là gì? Các công bố khoa học về Giãn phế quản

Giãn phế quản là hiện tượng tăng kích thước và sự giãn nở của các phế quản trong hệ hô hấp. Khi phế quản bị giãn, chúng không còn đủ khả năng co bóp và co lại đ...

Giãn phế quản là hiện tượng tăng kích thước và sự giãn nở của các phế quản trong hệ hô hấp. Khi phế quản bị giãn, chúng không còn đủ khả năng co bóp và co lại để đẩy khí ra khỏi phổi một cách hiệu quả. Điều này gây khó khăn trong việc thở và làm giảm lưu lượng không khí đi vào và ra khỏi phổi. Nguyên nhân của giãn phế quản có thể liên quan đến viêm nhiễm, sự co thắt của cơ hoặc do các vấn đề về cấu trúc của phế quản.
Giãn phế quản là một loại bệnh phổi mạn tính, được đặc trưng bởi sự giãn nở của các phế quản trong hệ hô hấp. Khi phế quản bị giãn, chúng trở nên lỏng lẻo và mất tính đàn hồi, không thể co bóp và co lại như bình thường để đẩy khí vào và ra khỏi phổi.

Các nguyên nhân chính của giãn phế quản bao gồm:

1. Viêm phế quản mạn tính (COPD): Là một bệnh phổi mạn tính mà trong đó phổi bị tổn thương theo thời gian, gồm một số bệnh như viêm phế quản mạn tính (bronchitis mạn tính) và thông phổi mạn tính (emphysema). Khi phổi bị viêm và tổn thương trong thời gian dài, các phế quản có thể bị giãn và thiếu tính đàn hồi.

2. Các bệnh lý có liên quan đến cấu trúc phế quản: Ví dụ như hội chứng Marfan, một bệnh di truyền gây ra sự yếu đàn hồi của cấu trúc mô, cũng có thể dẫn đến giãn phế quản.

3. Các vấn đề cơ: Nhiều bệnh có liên quan đến cơ có thể dẫn đến giãn phế quản, ví dụ như bệnh cơ bất thường củng cố (myasthenia gravis), bệnh Parkinson và bệnh cơ vận động chậm.

Các triệu chứng của giãn phế quản có thể bao gồm khó thở, ho khan, tiếng huýt sủng khi thở, yếu tố hoặc mệt mỏi nhanh chóng. Trong các trường hợp nghiêm trọng, giãn phế quản có thể gây ra suy hô hấp và cần điều trị bằng thuốc, phục hồi chức năng phổi, và/hoặc quản lý triệu chứng.
Giãn phế quản có thể xảy ra ở cả trẻ em và người lớn, nhưng thường phát triển và tăng nghiêm trọng theo tuổi tác. Dưới đây là một số chi tiết về giãn phế quản:

1. Cơ chế: Cấu tạo phế quản bao gồm các lớp cơ và mô elastin, collagen, và sợi muscle. Sự hoạt động của muscle này giúp điều chỉnh lưu lượng không khí qua phế quản và phối hợp với cơ của phổi trong quá trình thở. Khi có giãn phế quản, các lớp cơ và mô này mất đi đàn hồi và tính co bóp, dẫn đến khó thở và giảm lưu lượng không khí đi vào và ra khỏi phổi.

2. Triệu chứng: Các triệu chứng thường gặp của giãn phế quản bao gồm khó thở, tiếng huýt sủng, ho không tiếng động, mệt mỏi, đau ngực và viêm phế quản tái phát thường xuyên. Những triệu chứng này có thể diễn ra từ nhẹ đến nặng và có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và hoạt động hàng ngày của người bệnh.

3. Chẩn đoán: Để chẩn đoán giãn phế quản, bác sĩ thường yêu cầu bệnh nhân tiến hành một số kiểm tra và xét nghiệm như x-quang ngực, thử chức năng phổi, đo lưu lượng không khí và xét nghiệm máu. Các phương pháp hình ảnh như CT scan có thể được sử dụng để cung cấp thông tin chi tiết hơn về cấu trúc và tình trạng của phế quản.

4. Điều trị: Mục tiêu của điều trị giãn phế quản là giảm triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Điều này có thể bao gồm sử dụng thuốc dùng qua đường hô hấp như khí dung và viên nhỏ giãn phế quản để giúp mở rộng phế quản và tăng lưu lượng không khí đi vào phổi.
Đối với trường hợp nghiêm trọng hơn, quá trình thông phổi có thể được thực hiện để giúp mở rộng phế quản và quản lý triệu chứng. Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ như thậm chí cấy phế quản có thể được sử dụng trong các trường hợp cực kỳ nghiêm trọng và khó điều trị.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giãn phế quản":

Tác động của các chất đối kháng peptide ruột mạch (VIP) và antisera VIP cũng như peptide histidine isoleucine đến quá trình thư giãn không phải adrenergic, không phải cholinergic của cơ trơn phế quản Dịch bởi AI
British Journal of Pharmacology - Tập 96 Số 3 - Trang 513-520 - 1989

Tác động của một số loại thuốc, bao gồm các đối kháng của peptide ruột mạch (VIP) và antisera đối với VIP hoặc peptide histidine isoleucine (PHI), lên các phản ứng thư giãn của phế quản chuột lang biến lập thể (EFS) đã được khảo sát.

Việc chẹn β‐adrenoceptor bằng propranolol chỉ phần nào chặn được phản ứng ức chế với EFS, nhưng không có tác động lên mô từ những động vật đã được tiền điều trị bằng 6‐hydroxydopamine hoặc reserpine.

Cả adenosine deaminase, trong sự hiện diện của dipyridamole, lẫn đối kháng adenosine mạnh NPC205 (1,3‐n‐dipropyl‐8‐(4‐hydroxyphenyl)‐xanthine) đều không có tác động lên phản ứng ức chế đối với EFS.

Các đối kháng VIP, [Ac‐Tyr1, d‐Phe2]‐GRF(1–29)‐NH2 và [4‐Cl‐d‐Phe6, Leu17]‐VIP đều không có tác dụng lên phản ứng ức chế với EFS. Hơn nữa, chúng cũng không gây tác động lên phản ứng với VIP hoặc PHI ngoại sinh.

#peptide ruột mạch #VIP #peptide histidine isoleucine #cơ trơn phế quản #phản ứng ức chế
So sánh các hạt dựa trên phospholipid để phát hành liên tục ciprofloxacin sau khi sử dụng đường hô hấp ở bệnh nhân giãn phế quản Dịch bởi AI
Pulmonary Therapy - Tập 5 Số 2 - Trang 127-150 - 2019
Tóm tắt

Việc loại bỏ nhanh chóng ciprofloxacin hydrochloride khỏi phổi sau khi sử dụng dạng aerosol dẫn đến hiệu quả điều trị kém đối với các nhiễm trùng phổi. Việc phát triển các công thức có khả năng duy trì nồng độ ciprofloxacin trong phổi có tiềm năng cải thiện đáng kể hoạt tính kháng khuẩn. Bài đánh giá hiện tại so sánh hai phương pháp duy trì mức độ ciprofloxacin trong phổi, một công thức liposome nơi ciprofloxacin được bao gồm trong các túi đơn lớp nhỏ, và một công thức bột khô của dạng zwitterionic gần như không tan của thuốc. Hai công thức này vừa hoàn thành các nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 3 lớn đa trung tâm trên bệnh nhân giãn phế quản. Do đó, chúng cung cấp một cơ hội độc đáo để xem xét hóa học, sản xuất và kiểm soát các dạng liều bên cạnh khả năng dung nạp và hiệu quả của chúng ở hơn 1000 bệnh nhân giãn phế quản. Cả hai công thức đều được dung nạp tốt với hầu hết các sự kiện bất lợi được xác định là nhẹ đến vừa. Mặc dù các công thức hiệu quả trong việc giảm và/hoặc tiêu diệt nhiễm trùng, điều này không dẫn đến việc giảm các cơn bùng phát phổi, mục tiêu chính. Những thất bại này phản ánh nhiều hơn về tính chất không đồng nhất của bệnh và khó khăn trong việc xác định các bệnh nhân giãn phế quản có khả năng bùng phát, thay vì một giới hạn cố hữu của các công thức. Mặc dù các công thức tương tự ở nhiều khía cạnh, chúng cũng thể hiện một số khác biệt thú vị. Bài đánh giá này khám phá những tác động của những khác biệt này đối với điều trị các nhiễm trùng hô hấp.

TỪ QUAN NIỆM KHÔNG GIAN ĐẾN PHÊ BÌNH CẢNH QUAN: CẢNH QUAN “TƯƠNG TÂY” QUA NGÒI BÚT CỦA “NGƯỜI NHÀ QUÊ” THẨM TÙNG VĂN
Việc vận dụng các lý thuyết không gian và cảnh quan vào nghiên cứu văn học, cũng như sự tương tác giữa nghiên cứu không gian và phê bình cảnh quan ở một mức độ nhất định đã mở rộng phạm vi nghiên cứu của văn học, khiến cho kiến giải văn học trở nên phong phú, đa dạng hơn. Nó đồng thời cũng hiện thực hoá khả năng nghiên cứu liên ngành trong văn học và đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của lý thuyết văn học đương đại. Qua Biên thành, Thẩm Tùng Văn đã sáng tạo ra một hệ thống cảnh quan văn chương độc đáo, một “thế giới Tương Tây” vừa xa lạ nhưng lại có những liên hệ hết sức gần gũi không gian hiện thực xã hội. Xuất phát từ những luận giải về quan niệm không gian/ cảnh quan, bài viết này tập trung giải mã các đặc điểm của cảnh quan văn học được thể hiện trong tiểu thuyết Biên thành; cũng như các đặc sắc nghệ thuật trong việc kiến tạo cảnh quan của nhà văn Thẩm Tùng Văn.
#Space Theory; landscape criticism; The Border Town; Shen Congwen.
Tuân thủ điều trị và hiệu quả kiểm soát hen phế quản ở người trưởng thành điều trị ngoại trú tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kiên Giang năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 165-169 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả kiểm soát hen liên quan đến tuân thủ điều trị và một số yếu tố khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứumô tả cắt ngang có phân tích trên 194 người bệnh đang khám và điều trị ngoại trú tại Khoa Khám bệnh – Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang từ tháng 01 năm 2020 đến tháng 04 năm 2020. Kết quả: Những người có khám sức khỏe định kỳ và khám khi có dấu hiệu bất thường có kết quả kiểm soát hen tốt hơn những người không đi khám; những người ngừng hút thuốc, tránh thức ăn dị ứng và tránh môi trường kích ứng có kết quả kiểm soát hen tốt hơn những đối tượng còn lại; những người uống thuốc đúng giờ, đúng loại thuốc, đúng phương pháp có kết quả kiểm soát hen tốt hơn nhóm người còn lại. Kết luận: Các yếu tố liên quan đến hiệu quả kiểm soát hen là khám sức khỏe định kỳ, khám khi có dấu hiệu bất thường, ngừng hút thuốc, tránh thức ăn dị ứng, tránh môi trường kích ứng, uống thuốc đúng giờ, đúng loại thuốc, đúng phương pháp
#Tuân thủ điều trị #hen phế quản #điều trị ngoại trú.
TÌM HIỂU MỐI LIÊN QUAN GIỮA HÌNH ẢNH TỔN THƯƠNG TRÊN PHIM CẮT LỚP VI TÍNH ĐỘ PHÂN GIẢI CAO VỚI RỐI LOẠN CHỨC NĂNG THÔNG KHÍ Ở BỆNH NHÂN GIÃN PHẾ QUẢN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa hình ảnh tổn thương trên phim cắt lớp vi tính độ phân giải cao (HRCT) với rối loạn chức năng thông khí ở bệnh nhân giãn phế quản (GPQ). Phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 60 ca bệnh được chụp phim cắt lớp vi tính độ phân giải cao và đo chức năng thông khí (CNTK) tại Trung tâm Hô Hấp – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9/2021 đến tháng 9/2022. Kết quả: Tuổi trung bình 61,40 ± 14,47 với tỉ lệ nữ 51,7%. Hình ảnh ổ tròn sáng chiếm tỉ lệ cao nhất 96,7%, thành phế quản dày chiếm 95%, hình ảnh tổ ong chiếm 28,3%, hình ảnh ngón tay đi găng chiếm 16,7%. Thể GPQ hay gặp nhất là hình trụ chiếm 60%, hình túi 15%, hỗn hợp 21,7%, hình chuỗi hạt ít gặp nhất 3,3%. Đánh giá CNTK thấy 20% tỷ lệ bệnh nhân không có rối loạn chức năng thông khí (RLTK), bệnh nhân có kết quả hướng đến RLTK hỗn hợp và hạn chế lần lượt là 46,7% và 25%; 8,3% bệnh nhân có RLTK tắc nghẽn. Có mối liên quan giữa tổn thương dày thành phế quản với giá trị trung bình các chỉ số %VC, %FEV1 với ý nghĩa thống kê p < 0,05. Giá trị trung bình %VC, %FVC, %FEV1 ở nhóm bệnh nhân GPQ hình trụ cao hơn hình túi và hỗn hợp (p < 0,05). Số lượng thùy phổi càng tăng, giá trị trung bình các chỉ số %VC, % FVC, %FEV1, FEV1/FVC càng giảm. Kết luận: Có mối liên quan giữa tình trạng suy giảm chức năng phổi với tổn thương dày thành phế quản, số lượng các thùy giãn phế quản và các thể giãn phế quản.
#Giãn phế quản #phim cắt lớp vi tính lồng ngực #chức năng thông khí.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ VI KHUẨN HỌC Ở NGƯỜI BỆNH ĐỢT CẤP GIÃN PHẾ QUẢN TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP – BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, đặc điểm vi khuẩn học ở người bệnh đợt cấp giãn phế quản tại Trung tâm Hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu. Đối tượng nghiên cứu gồm 66 bệnh nhân được chẩn đoán xác định đợt cấp giãn phế quản tại Trung tâm hô hấp – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022, tất cả bệnh nhân được làm các xét nghiệm vi sinh đờm và dịch rửa phế quản. Kết quả và kết luận: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 66 bệnh nhân đợt cấp giãn phế quản. Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu 59,2 ± 11,7; tỉ lệ nữ/nam là 1,64/1. Triệu chứng cơ năng thường gặp nhất là ho khạc đờm 66,7%, tiếp theo là đau ngực 62,1%, sốt 48,3%, ho máu 33,3%, khó thở 15,2%. Triệu chứng thực thể khi khám phổi thấy ran ẩm, ran nổ 77,3%; thông khí phế nang giảm 24,2%; ran rít ngáy 9,1%. Về đặc điểm vi khuẩn học, tỉ lệ nuôi cấy vi khuẩn dương tính ở đờm là 27,3%; vi khuẩn thường gặp nhất Pseudomonas aeruginosa 15,2%, Acinetobacter baumannii 4,5%. Tỉ lệ nuôi cấy vi khuẩn dương tính ở dịch rửa phế quản là 31,8%; vi khuẩn thường găp nhất Pseudomonas aeruginosa 12,1%, Klebsiella pneumoniae và Staphylococcus aureus là 4,5%; trong đó nuôi cấy dương tính 1 trường hợp (1,5%) với Mycobacterium tuberculosis và Mycobacterium avium. Vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa còn nhạy cảm với nhiều loại kháng sinh Meropenem 94,4%, Piperacillin/Tazobactam 90,9%, Ceftazidime 81,8%,  Amikacin 88,9%, Ciprofloxacin 57,1%. Pseudomonas aeruginosa làm gia tăng số lần nhập viện và đợt cấp ở giãn phế quản người lớn.
#Giãn phế quản #đợt cấp giãn phế quản #nội soi phế quản
Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh giãn phế quản trên cắt lớp vi tính
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh giãn phế quản trên cắt lớp vi tính. Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân giãn phế quản điều trị tại Khoa A3, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 1/2014 đến tháng 4/2015. Tính tỷ lệ, so sánh thể và mức độ giãn phế quản. Kết quả: Giãn phế quản thường gặp ở nền và khắp 2 phổi. Hình đường ray nhiều nhất 90%, hình chuỗi hạt ít nhất 12%. Thể giãn phế quản hình trụ gặp nhiều nhất 70%. Đa số thể hình trụ mức độ nhẹ và trung bình. Tất cả các trường hợp thể hình túi đều nặng. Kết luận: Cắt lớp vi tính cho thông tin chi tiết về hình ảnh, thể và mức độ giãn phế quản.
Đánh giá kết quả phục hồi chức năng hô hấp ở người bệnh giãn phế quản tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 4 Số 2 - Trang 67-75 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phục hồi chức năng hô hấp ở người bệnh giãn phế quản điều trị tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai sau thực hiện các bài tập phục hồi chức năng hô hấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu can thiệp không đối chứng được tiến hành trên 31 người bệnh giãn phế quản tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2017 đến 8/2018. Kết quả: Tuổi trung bình của người bệnh trong nghiên cứu là 61.84±8.61. Tỷ lệ người bệnh nam/nữ xấp xỉ 1/1; 74,2% người bệnh vào viện vì ho có đờm, 67,7% người bệnh vào viện vì khó thở. Sau liệu pháp phục hồi chức năng hô hấp,các chỉ số chức năng hô hấp của người bệnh được cải thiện rõ rệt với khoảng cách đi bộ 6 phút của người bệnh tăng thêm 47,4 ±53,8 mét so với trước tập luyện, tỷ lệ người bệnh có mức độ khó thở mMRC 0-1 trước can thiệp là 48,4% tăng lên 77,7% sau can thiệp.Các chỉ số chức năng thông khí FEV1%, FVC% và FEV1/FVC% trước can thiệp là 44%, 57,9% và 58%; sau can thiệp lần lượt là 46%, 59,7% và 59,6%. Kết luận: Các bài tập phục hồi chức năng hô hấp trong phạm vi mẫu nghiên cứu bước đầu cho thấy những kết quả tích cực trong cải thiện chức năng hô hấp cho người bệnh giãn phế quản. Cần tiếp tục hướng dẫn người bệnh giãn phế quản thực hiện các bài tập phục hồi chức năng cơ bản tại nhà. Đồng thời cần xây dựng được những chương trình phục hồi chức năng hô hấp phù hợp cho các nhóm người bệnh cụ thể.
#Giãn phế quản #phục hồi chức năng hô hấp #Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai
Tình trạng tổn thương ngoài tuyến nặng và tràn dịch màng phổi ở bệnh nhân mắc hội chứng Sjogren nguyên phát: một báo cáo ca bệnh Dịch bởi AI
Journal of Medical Case Reports - Tập 16 - Trang 1-6 - 2022
Hội chứng Sjogren, một bệnh tự miễn của các tuyến ngoại tiết, dẫn đến viêm kết mạc khô, khô miệng, và sâu răng. Bệnh thường bị bỏ qua, được các bác sĩ coi là một bệnh lành tính. Tuy nhiên, nó có thể gây ra các biến chứng ngoài tuyến đe dọa tính mạng ảnh hưởng đến nhiều hệ cơ quan. Ở đây, chúng tôi trình bày một phụ nữ da trắng 78 tuổi có tiền sử hội chứng Sjogren nguyên phát với các triệu chứng viêm kết mạc khô được điều trị bảo tồn. Bệnh nhân được đánh giá vì tình trạng khó thở cấp tính ngắn. Hình ảnh cho thấy có giãn phế quản nặng với những đặc điểm của viêm phổi kẽ lympho. Bệnh nhân cũng có tràn dịch màng phổi hai bên dạng xuất huyết và loét da, có thể do viêm mạch. Công tác chẩn đoán có sự hiện diện của kháng thể anti-Ro, thiếu máu toàn thể, hạ bổ thể, cryoglobulinemia và gammopathy đơn dòng, tất cả đều phản ánh mức độ nghiêm trọng của bệnh. Mặc dù không có chứng cứ về ung thư, bệnh nhân đã phát triển lymphom B không Hodgkin trong quá trình theo dõi. Hội chứng Sjogren nguyên phát có thể dẫn đến bệnh lý đa cơ quan nặng nề. Tràn dịch màng phổi là một biến chứng hiếm gặp của hội chứng Sjogren nguyên phát, chỉ có mười ca được báo cáo trong tài liệu trong 30 năm qua, và thường phản ứng tốt với steroid. Các dấu marker tiên lượng mức độ nghiêm trọng của bệnh bao gồm hạ bổ thể, cryoglobulinemia, gammopathy đơn dòng và tăng gammaglobulin huyết. Trong báo cáo này, chúng tôi xem xét tài liệu và quản lý bệnh.
#Hội chứng Sjogren #bệnh tự miễn #khó thở #giãn phế quản #tràn dịch màng phổi #lymphom B không Hodgkin #đặc điểm lâm sàng
Y học hô hấp gặp gỡ y học nhiễm trùng: Bệnh lý Mycobacterium không lao ở phổi Dịch bởi AI
Zeitschrift für Pneumologie - Tập 20 Số 1 - Trang 44-51 - 2023
Bệnh lý Mycobacterium không lao ở phổi (NTM-LD) là các nhiễm trùng tiến triển mạn tính, thường xuất hiện liên quan đến các bệnh lý phổi thuận lợi (ví dụ: COPD [bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính], giãn phế quản) và thường đặt ra những thách thức cho các bác sĩ và bệnh nhân trong cuộc sống lâm sàng. Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng quan về dịch tễ học, chẩn đoán và điều trị NTM-LD. Dựa trên các phát hiện khoa học hiện tại và các khuyến cáo từ hướng dẫn hiện hành, sự phức tạp trong việc điều trị NTM-LD được trình bày và minh họa bằng 2 loài gây bệnh (tổ hợp Mycobacterium [M.] avium và M. abscessus). NTM-LD có thể tồn tại với những biểu hiện khác nhau. Việc chẩn đoán dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng, hình ảnh và vi sinh vật học đã được thiết lập. Quyết định điều trị phụ thuộc vào các yếu tố đồng bệnh khác như bệnh đi kèm, loài NTM đã được chứng minh, tình trạng đề kháng, mức độ nghiêm trọng của bệnh và kết quả điều trị dự kiến. Trong một số trường hợp, có thể chỉ định phương án theo dõi chờ đợi. Nhiễm trùng NTM ở phổi cần điều trị lâu dài (≥ 12 tháng), đôi khi được tiêm truyền tĩnh mạch và có liên quan đến độc tính đáng kể. Để chẩn đoán tối ưu và cân nhắc giữa việc điều trị hoặc không, bệnh nhân bị ảnh hưởng nên được giới thiệu sớm đến một trung tâm chuyên môn/đủ năng lực.
#bệnh lý Mycobacterium không lao ở phổi #NTM-LD #chẩn đoán #điều trị #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #giãn phế quản
Tổng số: 37   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4